Vài ý kiến đóng góp với bản dịch “Việt Nam khai quốc” (kỳ 1)
Vài ý kiến đóng góp với bản dịch “Việt Nam khai quốc” (kỳ 1)
Tác giả: Bùi Xuân Bách
Lời thưa trước
Có lẽ cũng như một số bạn đọc khác, tôi cùng có ý thích đọc những tài liệu về cổ sử Việt Nam. Thấy trang mạng talawas blog và Diễn đàn có giới thiệu bản dịch tiếng Việt cuốn The Birth of Vietnam trên trang web Da màu tôi vào xem ngay. Tôi cũng có cái may mắn được một người bạn tặng cho cuốn này khi sách mới ra. Phải nói ngay rằng đó là một cuốn sách quý. Đây là luận án tiến sĩ của Keith Weller Taylor, đã được bảo vệ tại Đại học Michigan năm 1976. Hiện nay ông lại đang là giáo sư của Đại học Cornell, một trong 8 trường thuộc Ivy League, là những trường hàng đầu của nước Mỹ. Cuốn sách là bản tăng bổ của luận án, được Nhà xuất bản Đại học California in năm 1983. Bản thân tôi vốn là “sư” (nghĩa là làm nghề gõ đầu trẻ) chứ không phải sử gia chuyên nghiệp, lại ưa thích trường phái “Sử Việt đọc một quyển”, cho nhanh, nên cũng chỉ đọc xong cho biết rồi “hạ thổ”, tức là cất xuống tầng hầm, chứ nhà chật con đông thì chỗ đâu mà để. Nay lại có được bản dịch tiếng Việt thì “mừng hết nhớn”. Đến đây phải xin tri ân bác Nguyễn Lê Vỹ đã mua bản quyền tiếng Việt của cuốn sách, dịch giả Lê Hồng Chương đã bỏ nhiều công sức dịch sang tiếng Việt và hai bạn Đinh Từ Bích Thúy và Chiêu Ly đã dành nhiều thời gian để nhuận sắc. Ngần ấy người đã góp công sức, thời gian và cả tiền bạc để chúng ta có được một bản dịch hoàn toàn miễn phí, mà cuốn sách này 397 trang, vậy thì khỏi nói ta cũng có thể hình dung ra cái nhiệt tâm, nhiệt tình ấy lớn như thế nào.
Tuy nhiên, như ta đều biết, vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan, bất kỳ một bản dịch nào, dù tốt đến đâu, cũng còn có những chỗ chưa chính xác hoặc chưa được thỏa đáng, chỉ có là ít hay nhiều mà thôi. Sau khi đã hạ tải về máy của mình, pha ấm trà ngon, ngồi đọc từ tốn (mắt mũi cũng kèm nhèm rồi) thì tôi thấy có vài ý kiến có thể đóng góp. Thực ra thì chỉ là những chỗ tôi sửa trong bản lưu cho mình thôi, sau thấy rằng có khi những chỗ sửa ấy may ra có thể giúp ích cho một số ít bạn nào đó đồng bệnh như tôi, thì tôi xin đưa ra đây. Mục đích chỉ là để chúng ta cùng có một bản dịch ngày càng tốt hơn, hoàn hảo hơn, chứ không phải là để “gây” một cái “sự” gì cả. Có lẽ cũng xin nhắc lại rằng, ta nên phân biệt trường hợp những cuốn sách dịch in bán lấy tiền mà sai sót rất nhiều, như Mật mã Da Vinci chẳng hạn, với những bản dịch miễn phí, bất vụ lợi. Khi ta nhìn vào đó thì nên có một cái nhìn trân trọng những tấm lòng vàng này, và nếu có đóng góp được gì thì cũng nên đóng góp.
Theo thiển ý của riêng tôi thì cuốn sách này đã được tác giả dày công khảo cứu nhiều sách tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Nhật (xin xem phần “Thư mục” từ trang 373 đến trang 384); nhiều cứ liệu được rút ra từ “Nhị thập tứ sử” như Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, Tùy thư, Cựu Đường thư v.v…, tức là “nói có sách” chứ không phải theo kiểu “tôi cho là…”. Bản dịch tiếng Việt thì trung thực, lưu loát, lại được thêm hai bạn văn nhuận sắc nên càng nhuyễn. Tất nhiên nhuận sắc thì khác với biên tập, biên tập lại khác với hiệu đính, nhưng đây cũng đã là thứ “gạo tám, gạo dự”, là thứ “cơm trắng ăn với chả chim” (chả biết là chim gì vì ca dao không có nói), nên nếu thấy có hạt sạn nào thì ta nhặt ra cho bát cơm thêm ngon, chứ sạn cũng không nhiều. Vả lại chuyện này cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”, chuyện nhỏ, nhỏ như con thỏ í mà.
Những ý kiến của tôi sẽ trình bày dưới đây cũng chỉ là thứ “nhàn đàm” mà thôi. Trên đây là phần chính, bây giờ bạn nào vẫn còn nhã hứng xin cùng tôi đi vào phần phụ.
Nội Hà ngày 20-9-2010
*
PHÀM LỆ
Tôi xin nhặt sạn ra lần lượt theo thứ tự từng chương từng phần trong bản dịch, để bạn nào
muốn sửa trong bản lưu của mình thì dễ theo dõi. Dẫu sao thì sức có chừng, lực có hạn, tôi xin giới hạn chủ yếu trong phạm vi những địa danh và nhân danh mà thôi. Thực ra thì ở cuối sách (từ trang 360 đến 372) tác giả có cho một Bảng từ (Glossary) liệt kê những danh từ riêng này (gồm chữ Hán với phiên âm Wade-Giles hoặc nếu là tiếng Việt thì chú thêm chữ Hán), thành ra việc tôi làm thực chất cũng chỉ là đối chiếu lại xem âm Hán Việt trong bản dịch đúng sai ra sao thôi, chứ không có gì là tày đình cả. Cũng xin nói trước là thấy đâu thì nhặt đấy chứ không có nghĩa là nhặt được hết, mong các bạn khác tiếp tục bổ sung thêm.
Tôi trình bày thành một bảng ở đầu mỗi phần cho dễ xem, gồm có sáu cột: số thứ tự; lời văn trong bản dịch; nguyên văn trong sách (bản tiếng Anh – dùng phiên âm Wade-Giles); chữ Hán (phồn thể tự); bính âm Hán ngữ (pinyin); âm Hán-Việt. Tên người với tên đất vốn là danh từ riêng nên bắt buộc phải chính xác (thì mới tra cứu được khi cần), không thể nào lại ngam ngám hay gần đúng được, chẳng hạn: Hồ Quý Ly mà đánh ra Hồ Quy Lý thì đúng là “có Giời mới biết là xanh hay vàng”. Cách đọc Hán Việt lại cũng là chuyện lôi thôi nữa, xưa nay các cụ vẫn hay mắng “chữ tác đánh ra chữ tộ, chữ ngộ đánh ra chữ quá”, mong rằng nếu có sai sót (chắc chắn là có) xin các bậc túc nho chỉ điểm thêm cho. Trường hợp nào cần giải thích rõ ràng hơn thì tôi sẽ trình bày dưới cái bảng đó, lần lượt theo số thứ tự đã đánh ở trên.
Có khi, cùng một lỗi bị lặp đi lặp lại ở những phần khác nhau, tôi cũng nhắc lại để các bạn lưu ý sửa trong phần đó.
Viết hoa tên Hán: Địa danh thì tôi viết hoa cả như thông lệ, nhưng nhân danh, nếu là họ hoặc tên kép thì chỉ viết hoa âm tiết đầu, như gợi ý của GS Tạ Trọng Hiệp, chẳng hạn: Nam cung, Thái sử, Ân lai, Trạch đông. Lúc đầu trông có lạ mắt, nhưng hợp lý, vì chính người Trung Quốc khi dùng La mã tự để ghi tên họ, người ta cũng viết như vậy. Thí dụ: Zhao Ziyang (Triệu Tử dương), Hu Jintao (Hồ Cẩm đào) hoặc Ouyang Xiu (Âu dương Tu). Điều này không ai bắt buộc mà chỉ là thói quen cá nhân. Bạn nào cũng cho là phải thì cứ tự nhiên áp dụng, còn bạn nào muốn cho chắc ăn, thì xin cứ việc viết hoa tuốt.
Nếu cả ba âm tiết đều viết hoa thì đó là tên Việt.
*
Việt Nam khai quốc – Chương 1 phần 1 (sách trang 1-17)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | nhà Tấn | Ch’in | 秦 | Qín | nhà Tần |
2 | nhà Chu | Ch’u | 楚 | Chǔ | nhà Sở |
3 | Ung Châu | Wen-chou | 溫州 | Wēnzhōu | Ôn châu |
4 | Bồ Kiên | Fu-chien | 福建 | Fújiàn | Phúc Kiến |
5 | sông Tích(xem bản đồ) | Hsi river system,Hsi chiang | 西江 | Xījiāng | hệ thống sông Tây (giang),Tây giang |
6 | Thế là sau 333 năm trước Công nguyên, … | Sửa: Thế là sau năm 333 trước Công nguyên, … (có lẽ là lỗi đánh máy) |
Chú giải:
1- Nhà Tần (秦朝; pinyin: Qín Cháo; Wade-Giles: Ch’in Ch’ao; từ 221 đến 206 trước
Công nguyên).
Nhà Tấn (giản thể: 晋朝; phồn thể: 晉朝; pinyin: Jìn Cháo; Wade-Giles: Chin Ch’ao;
265–420).
2- Nhà Chu (/Châu) (周朝; pinyin: Zhōu Cháo; Wade-Giles: Chou Ch’ao; từ 1045 đến 256 trước Công nguyên).
Nước Sở (楚國; pinyin: Chǔ Guó; Wade-Giles: Ch’u Kuo; tồn tại từ 722 đến 221 trước Công nguyên).
3- Ôn Châu thuộc tỉnh Chiết Giang, còn Ung Châu (邕州) là tên cũ (từ năm 632 đến 1324) của Nam Ninh hiện thời, thuộc tỉnh Quảng Tây (Khu tự trị Choang – Quảng Tây).
4- Tỉnh Phúc Kiến.
5- Tôi đã cố tìm xem có sông nào ở Trung Quốc gọi là sông Tích hay không, nhưng trong các sông lớn của họ (Giang – jiang hay Hà – he) thì không có sông nào là sông Tích cả. Vậy thì nếu có, họa chăng có vài ngọn tiểu khê nào đó có thể có tên là Tích, chứ sông thì không. Lại xét đến khu vực địa lý mà cuốn sách này đề cập tới (chủ yếu là Bắc Việt Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, đôi khi mở rộng thêm, có nói tới Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên, Phúc Kiến, Hồ Nam) thì có Tây giang (西江) mà trong tiếng Hán đọc là Xi (pinyin), Hsi (Wade-Giles). Xem trên bản đồ ta thấy Tầm giang, Quế giang, Hạ giang đổ vào Tây giang; tới lượt mình, cùng với Bắc giang và Đông giang, Tây giang lại đổ vào Châu giang trong khu vực Quảng Châu trước khi đổ ra biển Nam Hải.
[ Tầm Giang (潯江/浔江 – Xun), Quế Giang (桂江 – Gui), Hạ Giang (賀江/贺江 – He) ]
[ Bắc Giang (北江 – Bei), Đông Giang (東江/东江 – Dong), Châu Giang (珠江 – Zhu) ]
Nguồn: Wikipedia
Việt Nam khai quốc – Chương 1 phần 2 (sách trang 17-23)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Địch Hồ Long | I Hsü-sung | 譯吁宋 | Yì Xūsòng | Dịch Hu tống |
2 | Giám quân Lư | Lu | 祿 | Lù | Lộc |
3 | kinh Hằng An | Hsing-an canal | 興安運河/兴安运河 | Xīng’ān | Hưng An vận hà (Linh cừ – 靈渠) |
Chú giải:
3- Hưng An vận hà còn có tên là Tương Quế vận hà, nằm tại huyện Hưng An, phía Đông Bắc tỉnh Quảng Tây, gần Quế Lâm. Đây là công trình thủy lợi tối cổ và cũng là đường giao thông thủy quan yếu. Được đào từ thời Tần Thủy hoàng năm thứ hai mươi cho tới năm thứ hai mươi ba (năm 219 trước Công nguyên – 215 trước CN) thì hoàn thành. Đến đời Đường mới cải tên là Linh cừ. Kênh này nối thông Tương giang thuộc thủy hệ Trường giang với Li giang thuộc thủy hệ Châu giang.
Việt Nam khai quốc – Chương 1 phần 3 (sách trang 23-44)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | gia đình của người họ Chương (Cheng) trong kinh Lễ, và họ này làm vua ở Hồ Nam từ năm 774 đến 500 TCN. | The Cheng family in the Li chi and the Cheng ruled in Ho-nan from 774 to 500 B.C. | 鄭/正/徵 | Zhèng/ Zhèng/ Zhēng | Trịnh/ Chính/ Trưng |
2 | Triệu Hổ | king Hu | 趙胡 | Zhào Hú | Triệu Hồ (Triệu Văn Vương) |
3 | Hán Triệu đế | Han Chao-ti | 漢昭帝 | Hàn Zhāodì | Hán Chiêu đế |
4 | triều Hán Ngô Phương (57-54 trước CN) | Wu-feng reign (57 BC-54 BC) | 五鳳 | Wŭfèng | niên hiệu: Ngũ Phượng (thời Hán Tuyên đế) |
5 | Bồ Kiên | Fu-chien | 福建 | Fújiàn | Phúc Kiến |
6 | Hoàng đế Bình | Han P’ing-ti | 漢平帝 | Hàn Píngdì | Hán Bình đế |
7 | Trọng Thủy | Shih Chiang | 始降 | Shǐ Jiàng | Thủy Giáng |
Chú giải:
1- Nếu là họ Chương thì (Wade-Giles) viết là Chang ( 章,pinyin: Zhāng) chứ không phải là Cheng. Trong bản tiếng Anh viết là Cheng thì bính âm là Zheng, có khả năng là một trong ba họ sau: Trịnh 鄭, Chính 正, Trưng 徵. Bạn nào có điều kiện xin tra cứu giúp.
* Tỉnh Ho-nan như trong sách viết là tỉnh Hà Nam (河南- bính âm: Henan), chứ không phải Hồ Nam (Hunan – 湖南).
2- Triệu Văn Vương (文王, bính âm: Zhào Wén Wáng,), húy Triệu Mạt, có khi phiên là Triệu Muội (趙眜, bính âm: Zhào Mò), còn gọi là Triệu Hồ (趙胡, bính âm: Zhào Hú)
3- Hán Chiêu đế (劉弗陵 – Lưu Phất lăng) làm vua từ năm 87 trước CN đến 74 trước Công nguyên.
4- Sự nhầm lẫn giữa Triều đại với niên hiệu là điều cần tránh.
6- Dịch là Hoàng đế Bình thì không sai nhưng chưa đủ. Nếu gọi theo cổ nhân là Hán Bình đế thì khu biệt rõ hơn là vua ấy thuộc về triều đại nào và không gây lẫn lộn khi có trường hợp trùng miếu hiệu, như Tống Thái tổ, hay Minh Thái tổ. Nếu cứ gọi là vua Thái tổ hay Hoàng đế Thái thì không biết ai vào với ai.
Hán Bình đế (劉衎 – Lưu Khản) làm vua từ năm 1 đến 6 Công Nguyên.
7- Dịch Trọng Thủy là đúng, thông tin này chỉ để tham khảo thêm.
Việt Nam khai quốc – Chương 2 phần 1 (sách trang 45-53)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | ||
1 | chiếu chỉ | old regulations (chiu chih) | 舊制 | jiù zhì | cựu chế | |
2 | chắc chắn Mã Viện đã rất cảm động ? | |||||
3 | lò gạch | kiln | lò gốm | |||
Chú giải:
2- Nguyên văn tiếng Anh: “Ma Yuan was undoubtedly moved to show such mercy because…”. Phục Ba tướng quân Mã Viện, người đã đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, không thể nào lại “cảm động” ở đây được. Động từ move ở đây mang nghĩa khác.
3- Lò gạch trong tiếng Việt thì chỉ có nung gạch thôi. Trong các ngôi mộ gạch ở đây người ta còn tìm thấy các đồ gốm khác như những bình bằng đất nung (earthenware vessels), những mô hình nông trại bằng gốm. Đây cũng là những vật người ta thường chôn theo người chết vào thời Hán. Các lò gốm nổi tiếng bên Trung Quốc, sản xuất Quân diêu, Nhữ diêu, Quan diêu, Long tuyền diêu v.v… trong sách tiếng Anh người ta đều dùng chữ kiln cả. Vậy theo tôi, dịch là lò gốm chính xác hơn và nội hàm rộng hơn nên vẫn bao gồm cả lò gạch.
Việt Nam khai quốc – Chương 2 phần 2 (sách trang 54-70)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Cổ Tông (gǔ) | Chia Tsung | 賈琮 | Jiǎ Cóng | Giả Tông |
2 | Trương Hối | Chang Hui | 張恢 | Zhāng Huī | Trương Khôi |
3 | Lý Nhiệm | Li Shan | 李善 | Lǐ Shàn | Lý Thiện |
4 | vua Hồ | Han Ho-ti | 漢和帝 | Hàn Hédì | Hán Hòa đế |
5 | Hoàng Chỉ (một xứ ở phía Nam Nhật Nam) | Huang Chih | 黄支 | Huáng Zhī | Hoàng Chi |
6 | Tường Lâm | Hsiang-lin | 象林 | Xiànglín | Tượng Lâm |
7 | Khu Liên (người) | Ou Lien | 區連 | Ōu Lián | Âu Liên |
8 | Cơ Xương | Chia Ch’ang | 賈昌 | Jiǎ Chāng | Giả Xương |
9 | Phan Liên | Fan Yen | 樊演 | Fán Yǎn | Phàn Diễn |
10 | Chu Cương | Chou Ch’ang | 周敞 | Zhōu Chǎng | Chu Sưởng |
11 | Hà Phương | Hsia Fang | 夏方 | Xià Fāng | Hạ Phương |
12 | Cự Phong | Chü-feng | 居風 | Jūfēng | Cư Phong |
13 | Sĩ Tư | Shih Ssu (Tz’u) | 士賜 | Shì Cì | Sĩ Tứ |
14 | vua Hoàn | Han Huan-ti | 漢桓帝 | Hàn Huándì | Hán Hoàn đế |
15 | vua Minh | Han Ming-ti | 漢明帝 | Hàn Míngdì | Hán Minh đế |
Chú giải
1- và 8- Chữ 賈 có hai cách đọc: gǔ – cổ (Hán Việt) và jiǎ – giả (HV), nhưng khi dùng làm họ thì phải đọc là Giả. Thí dụ: 賈誼/贾谊 (Jiǎ Yì) phải đọc là Giả Nghị, nhà thơ đời Hán.
4- Hán Hòa đế (劉肇 – Lưu Triệu) làm vua từ năm 89 đến 105.
5- Hoàng Chi quốc hiện thời tức là xứ Kanchipuram – Cam cát bố lặc mẫu (甘吉布勒姆). Kanchipuram (hoặc Kanchi, Kancheepuram) hiện là quận Kanchipuram thuộc tiểu bang Tamil Nadu của Ấn Độ.
7- Chữ 區 có năm cách đọc: qū – khu, ōu – âu, gōu – câu, kòu – khâu, qiū – khưu, tùy theo trường hợp sử dụng hay văn cảnh. Trường hợp là họ thì phải đọc là Âu (ōu), thí dụ: Âu Quát tử (區适子/区适子) – đời Tống, được cho là tác giả của Tam tự kinh.
13- Chữ 賜 (赐) đọc là Cì (Wade-Giles: Tz’u). Trong sách tác giả chú sai là Shih Ssu (Wade-Giles), bính âm sẽ là Shi Si.
14- Hán Hoàn đế (劉志 – Lưu Chí) làm vua từ năm 146 đến 168.
15- Hán Minh đế (劉莊 – Lưu Trang) làm vua từ năm 58 đến 75.
Việt Nam khai quốc – Chương 2 phần 3 (sách trang 70-80)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Sĩ Vi | Shih Yü | 士鮪 | Shì Wěi | Sĩ Vị |
2 | Trương Tần | Chang Chin | 張津 | Zhāng Jīn | Trương Tân |
3 | Lai Cung | Lai Kung | 賴恭 | Lài Gōng | Lại Cung |
4 | Bộ Chính | Pu Chih | 步隲 | Bù Zhì | Bộ Chất |
5 | Sĩ Tấn | Shih Hsin | 士廞 | Shì Xīn | Sĩ Hân |
6 | Sĩ Nghi | Shih I | 士壹 | Shì Yī | Sĩ Nhất |
7 | Tiết Tống | Hsüeh Tsung | 薛綜 | Xuē Zòng | Tiết Tổng |
8 | Lưu Chiểu | Liu Hsi | 劉熙 | Liú Xī | Lưu Hy |
Chú giải
1- Chữ 鮪 (鲔) đọc là Wěi. Trong sách tác giả chú sai là Shih Yü (Wade-Giles), bính âm sẽ là Shi Yu.
Việt Nam khai quốc – Chương 2 phần 4 (sách trang 80-84)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Khương Tăng Hối | K’ang Seng Hui | 康僧會 | Kāng Sēng Huì | Khương Tăng Hội |
2 | Cường Lương Lâu | Kalyāṇaruci | 疆梁婁 | Jiàng-liáng-lóu | Cương lương lâu |
3 | Mậu Tứ | Mou Tzu | 牟子 | Móu Zǐ | Mâu Tử |
4 | Mậu Bác | Mou Po | 牟博 | Móu Bó | Mâu Bác |
5 | Từ Đinh | Hsiu Ting | 修定 | Xiū Dìng | Tu Định |
6 | Gandhāran | Chien-t’o-lo | 犍陀羅 | Jiān-tuó-luó | Kiền đà la |
Chú giải
1- Khương Tăng Hội được xem là thiền sư đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Nhất Hạnh có viết cuốn “Thiền sư Tăng Hội” – NXB An Tiêm 1998.
3-, 4- Mâu Tử, hay là Mâu Bác, tác giả “Lý Hoặc Luận” (理惑論). Đây là tác phẩm Phật giáo đầu tiên bằng Hán tự được viết tại Giao Chỉ năm 189 CN.
Việt Nam khai quốc – Chương 3 phần 1 (sách trang 85-91)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Đại Lương | Tai Liang | 戴良 | Dài Liáng | Đái Lương |
2 | Hoàn Lan | Huan Lin | 桓鄰 | Huán Lín | Hoàn Lân |
3 | Hoàn Trí | Huan Chih | 桓治 | Huán Zhì | Hoàn Trị |
4 | Sĩ Nghi | Shih I | 士壹 | Shì Yī | Sĩ Nhất |
5 | (Sĩ) Quang | (Shih) K’uang | 士匡 | (Shì) Kuāng | (Sĩ) Khuông |
6 | Cẩm Lệ | Kan Li | 甘醴 | Gān Lǐ | Cam Lễ |
7 | Dương Minh | T’ang-ming | 堂明 | Tángmíng | Đường Minh |
8 | Chu Trì | Chu Chih | 朱治 | Zhū Zhì | Chu Trị |
9 | Khu Liên (người) | Ou Lien | 區連 | Ōu Lián | Âu Liên |
10 | Cự Phong | Chü-feng | 居風 | Jūfēng | Cư Phong |
Việt Nam khai quốc – Chương 3 phần 2 (sách trang 91-98)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Ung An | Yung-an period | 永安 | Yǒngān | Vĩnh An |
2 | Hoắc Đặc | Huo I | 霍弋 | Huò Yì | Hoắc Dặc |
3 | Phân Thủy | Fen-shui / Fen-ho | 汾水/ 汾河 | Fénshuǐ / Fénhé | Phần Thủy / Phần hà |
4 | Lý Tố | Li Tso | 李祚 | Lǐ Zuò | Lý Tộ (Việt) |
5 | Đồng Nguyên | Tung Yüan | 董元 | Dǒng Yuán | Đổng Nguyên |
Chú giải
1- Niên hiệu Vĩnh An (258-263) của Ngô Cảnh đế (Tôn Hưu – 孫休), thời Tam Quốc.
3- Luôn luôn được đọc là sông Phần hay Phần Thủy, Phần Hà.
Việt Nam khai quốc – Chương 3 phần 3 (sách trang 98-106)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Triệu Chi | Chao Chih | 趙祉 | Zhào Zhǐ | Triệu Chỉ (Việt) |
2 | Lý Tốn | Li Tso | 李祚 | Lǐ Zuò | Lý Tộ (Việt) |
3 | Cổ Bí | Ku Pi | 顧秘 | Gù Bì | Cố Bí |
4 | Cổ Sâm | Ku T’san | 顧參 | Gù Cān | Cố Tham |
5 | Cổ Thọ | Ku Shou | 顧壽 | Gù Shòu | Cố Thọ |
6 | Vương Chi | Wang Chi | 王幾 | Wáng Jǐ | Vương Cơ |
7 | Đỗ Tấn | Tu Tsan | 杜讚 | Dù Zàn | Đỗ Tán |
8 | Nguyên Phương | Yüan Fang | 沅放 | Yuán Fàng | Nguyên Phóng |
9 | một nhà vua mới ở Tứ Xuyên tên là Cheng Han | with the Taoist Ch’eng Han dynasty | 成漢 | Chénghàn | Thành Hán |
10 | Trương Liên | Chang Lien | 張璉 | Zhāng Lián | Trường Liên (Việt) |
Chú giải
9- Triều Thành Hán ở Tứ Xuyên thời Ngũ Hồ thập lục quốc (303 hoặc 304-347). Đây cũng là triều đại thành lập sớm nhất trong thời kỳ Thập lục quốc.
10- Trong Bảng từ (Glossary) tác giả có cho tên Trường Liên (phần nhân danh tiếng Việt).
Việt Nam khai quốc – Chương 3 phần 4 (sách trang 106-115)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Phạm Miễn | Fan I | 范逸 | Fàn Yì | Phạm Dật |
2 | vua Min | Chin Min ti | 晉愍帝 | Jìn Mǐndì | Tấn Mẫn đế |
3 | Khương Trang | Chiang Chuang | 姜壯 | Jiāng Zhuàng | Khương Tráng |
4 | Thao Tập | T’ao Chi | 韜戢 | Tāo Jí | Thao Trấp |
5 | Hạ hầu Lam | Hsia-hou Lan | 夏侯覽 | Xiàhóu Lǎn | Hạ hầu Lãm |
6 | Đặng Tuấn | T’eng Chün | 滕畯 | Téng Jùn | Đằng Tuấn |
7 | Nguyên Phu | Yüan Fu | 阮敷 | Yuán Fū | Nguyễn Phu |
8 | Đằng Hàn | T’eng Han | 藤含 | Téng Hán | Đằng Hàm |
9 | Nguyễn Lang | Yüan Lang | 阮朗 | Yuán Lǎng | Nguyễn Lãng |
10 | Lưu Du | Liu Yü | 劉裕 | Liú Yù | Lưu Dụ |
11 | Chu Phù | Chu Fu | 朱輔 | Zhū Fǔ | Chu Phụ |
12 | Đặng Độn chi | T’eng Tun-chih | 騰遯之 | Téng Dùnzhī | Đằng Độn chi |
13 | Đỗ Viện, Đỗ Viên | Tu Yüan | 杜瑗 | Dù Yuàn | Đỗ Viện |
14 | Lý Nhiếp | Li I | 李弈 | Lǐ Yì | Lý Dịch (Việt) |
15 | Vương Huy chi | sách không có | |||
16 | Lý Du | Ly family | (không có) |
Chú giải
2- Tấn Mẫn đế – Tư mã Nghiệp (司馬鄴) – niên hiệu Kiến Hưng (建興) 313-317
10- Lưu Dụ là vua sáng lập nhà Lưu Tống (420–479) thời Nam Bắc triều (420–589).
16- Nguyên văn trong sách là Ly family. Không rõ tại sao lại dịch là Lý Du.
Việt Nam khai quốc – Chương 3 phần 5 (sách trang 115-126)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Nhà Tấn với Lâm Ấp | Sung and Lin-i | 劉宋(朝) | Liú Sòng (Cháo) | Nhà (Lưu) Tống với Lâm Ấp |
2 | Đỗ Hoàng Văn | Tu Hung-wen | 杜弘文 | Dù Hóngwén | Đỗ Hoằng Văn (Việt) |
3 | Tông Sắc Tống Sắc | Tsung Ch’üeh | 宗愨 | Zōng Què | Tông Xác |
4 | Tiêu Ngô (454-464) | Emperor Hsiao Wu | 孝武帝 | Xiào Wǔdì | Hiếu Võ đế |
5 | xứ Toba | Toba empire | 拓拔 | Tuòbá | Thác Bạt |
6 | Hàn Hoành | Huan Hung | 桓閎 | Huán Hóng | Hoàn Hoằng |
7 | Lý Trượng Nhân | Li Chang-jen | 李長仁 | Lǐ Zhāngrén | Lý Trương Nhân (Việt) |
8 | Lý Thục Hiên | Li Shu-hsien | 李叔獻 | Lǐ Shūxiàn | Lý Thúc Hiến |
9 | Trần Hoàn | Shen Huan | 沈煥 | Shěn Huàn | Thẩm Hoán |
10 | Trần Lượng đức | Shen Liang-teh | 沈諒德 | Shěn Liàngdé | Thẩm Lượng đức |
11 | Hoàn Hưng | Huan Hung | 桓閎 | Huán Hóng | Hoàn Hoằng |
12 | Phúc Đặng Chi | Fu Teng-chih | 伏登之 | Fú Dēngzhī | Phục Đăng Chi (Việt) |
13 | Lý Khai | Li K’ai | 李凱 | Lǐ Kǎi | Lý Khải (Việt) |
Chú giải
1- Nhà Tấn (giản thể: 晋朝; phồn thể: 晉朝; pinyin: Jìn Cháo; Wade–Giles: Chin) từ năm 265 đến 420. Nhà Lưu Tống (giản thể: 刘宋朝; phồn thể: 劉宋朝; pinyin: Liú Sòng Cháo; Wade-Giles: Liu Sung Ch’ao) từ năm 420 đến 479.
4- Hiếu Võ đế Lưu Tuấn (Liú Jùn 劉駿) triều Lưu Tống (453-464).
5- Thác Bạt vừa là họ người, vừa là tên của một bộ tộc du mục người Tiên Ty. Họ đã từng thành lập nước Đại (310-376) và triều Bắc Ngụy (386-536) thời Ngũ Hồ thập lục quốc.
Việt Nam khai quốc – Chương 3 phần 6 (sách trang 126-131)
bản dịch | nguyên văn (Wade-Giles) | Hán tự | pinyin | Hán-Việt | |
1 | Tiết Tống | Hsüeh Tsung | 薛綜 | Xuē Zòng | Tiết Tổng |
2 | Tường Lâm | Hsiang-lin | 象林 | Xiànglín | Tượng Lâm |
3 | Lý Khai | Li K’ai | 李凱 | Lǐ Kǎi | Lý Khải |
4 | Lý Tiên | Li Hsün | 李遜 | Lǐ Xùn | Lý Tốn |
5 | Lý Thượng Nhân | Li Chang-jen | 李長仁 | Lǐ Zhāngrén | Lý Trương Nhân (Việt) |
6 | Lý Thục Hiên | Li Shu-hsien | 李叔獻 | Lǐ Shūxiàn | Lý Thúc Hiến (Việt) |
7 | Phúc Đặng Chi | Fu Teng-chih | 伏登之 | Fú Dēngzhī | Phục Đăng Chi (Việt) |
© 2010 Bùi Xuân Bách
© 2013 DICHSO – Mọi thông tin bài viết, tập download, đều được DSC giữ đúng nguồn của tác giả.
Trả lời